TÊN GỌI DI TÍCH: ĐÌNH CẦU
NHÂN
Tên
gọi khác của di tích: Đình làng Bông.
ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI
TÍCH
Địa điểm di tích
Đình Cầu Nhân tọa lạc tại thôn Nhân Phú, xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh
Nam Định.
Theo
các nguồn tư liệu lịch sử, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945,
thôn Nhân Phú có tên là Cầu Bông thuộc xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản,
phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, đơn vị hành chính cấp xã có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Hai xã:
Hiển Khánh và Đại Lão hợp nhất thành xã Khánh Lão, thôn Cầu Bông đổi tên thành
thôn Cầu Nhân. Lúc này, di tích đình Cầu Nhân thuộc xã Khánh Lão,
huyện Vụ Bản.
Tháng
10 - 1964, để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, 2 thôn Cầu Nhân và Đại Lão tách khỏi xã Khánh Lão,
huyện Vụ Bản sáp nhập vào xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc. Đình Cầu Nhân thuộc xã Mỹ
Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
Ngày
13 - 6 -1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 76 - CP, sáp nhập toàn bộ
huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định. Đến ngày 16 - 2 - 1997, Chính phủ ra Nghị
định số 19 - CP tái lập huyện Mỹ Lộc gồm 11 đơn vị hành chính trực thuộc là các
xã: Mỹ Hà, Mỹ Phúc, Mỹ Hưng, Mỹ Tân, Mỹ Thành, Mỹ Thịnh, Mỹ Thắng, Mỹ Trung, Mỹ
Tiến, Mỹ Thuận và Lộc Hòa (sau xã Lộc Hòa cắt về thành phố Nam Định). Năm 2003,
thành lập thị trấn Mỹ Lộc.
Năm 2022, 3 thôn: Cầu
Nhân, Phú Vinh, Đống Ba của xã Mỹ Thuận hợp nhất thành thôn Nhân Phú, xã Mỹ
Thuận.
Như vậy, qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính,
đến nay, xã Mỹ Thuận là 1 trong 11 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn của huyện
Mỹ Lộc, có vị trí địa lí: Phía Bắc giáp xã An Nội (huyện Bình Lục), phía Đông
giáp xã Mỹ Thịnh, phía Tây Bắc giáp xã Minh Thuận (huyện Vụ Bản), phía Nam giáp
đường 21; diện tích tự nhiên 864,65 ha; dân số 7500 người, phân bổ thành 10 thôn:
Phúc, Lộc, Thọ, Hàn Thông, Nam Khánh, Đại Thắng, Nhân Phú, Lê Hồng Phong, Liên
Minh, Quang Trung.
Đình Cầu Nhân nằm trên địa bàn thôn Nhân Phú, gần khu
dân cư và quốc lộ 21A nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy giá trị.
Đường đi đến di tích
Về thăm di tích đình Cầu
Nhân có thể đi theo nhiều đường nhưng thuận lợi nhất là những đường sau:
- Từ thành
phố Nam Định theo quốc lộ 21A về hướng Hà Nội khoảng 12km, rẽ phải đi theo
đường làng Bông 300m là tới di tích.
- Từ thành
phố Phủ Lý tỉnh Hà Nam theo quốc lộ 21A về hướng Nam Định khoảng 19km, rẽ trái
đi theo đường làng Bông 300m là tới di tích.
LOẠI HÌNH
DI TÍCH
Căn cứ
vào kết quả khảo sát, nghiên cứu và đánh giá giá trị của di tích theo Điều 11
Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa (2001) và Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Di sản văn hóa (2009), chúng tôi phân loại Đình Cầu Nhân là di
tích Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật.
NHÂN VẬT, SỰ KIỆN LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Đình Cầu Nhân thờ Thành hoàng Câu
Mang đại vương
Căn cứ
vào các nguồn tư liệu Hán Nôm hiện lưu giữ tại di tích như: Câu đối, đại tự,
sắc phong, thần tích và truyền thuyết tại địa phương thì vị thần được thờ tại
đình Cầu Nhân là Thành hoàng Câu Mang đại vương. Ông không chỉ là một vị tướng
có công đánh giặc giữ nước mà còn là hiện thân của vị thần nông nghiệp biểu
trưng cho khát vọng cầu mùa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước.
Theo
tài liệu Kiểm kê di tích năm 2017,
trên địa bàn huyện Mỹ Lộc có 13 di
tích và huyện Vụ Bản có 10 di tích thờ Câu Mang đại vương. Mỗi di tích đều có bản
thần tích riêng đề cập đến thân thế sự nghiệp của vị thần và liền với đó là
những lí giải về việc phụng thờ vị thần đối với từng địa phương.
Theo
Thần tích Hoàng tử triều Hùng Câu Mang đại vương ở đình Cầu Nhân (xã Mỹ
Thuận, huyện Mỹ Lộc) và đền Trang Nghiêm Thượng (xã Minh Tân, huyện Vụ Bản) thì
Câu Mang hoá thành một con rắn vàng đầu thai vào một cung phi. Thần tích ở
đền làng Bịch (xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản) thì Câu Mang hoá thành giao
long đầu thai vào một gia đình nhà nho có bố là Cao Tố, mẹ là Trương Thị Khánh.
Thần tích Phủ thờ làng Phú Lão (xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản) thì Câu
Mang lại hoá thành rồng để đầu thai vào một nhà hào trưởng bố là Cao Hạo và mẹ
là bà Trương Thị Vỹ.
Có thể thấy, Thần tích ghi chép về vị thần Câu
Mang rất phong phú và đa dạng. Trong nội dung bản lý lịch di tích đình Cầu Nhân,
xã Mỹ Thuận chúng tôi sử dụng nội dung bản Thần tích “Câu Mang đại vương
triều Hùng”, hiện đang lưu giữ tại di tích đình Cầu Nhân và đền Trang
Nghiêm. Nội dung bản thần tích ghi chép khá rõ về thân thế sự nghiệp của vị
Thành hoàng Câu Mang đại vương như sau:
Tại
vùng đất thuộc quận Đà Bắc, có gia đình họ Phạm sinh được một người con gái sắc
nước hương trời, được vua Hùng tuyển chọn làm cung phi thứ 3. Một hôm, cung phi
nằm nghỉ, mơ màng thấy một con rắn vàng, đầu đội mũ sao từ trên trời bay xuống
giáng vào người. Trong thời gian đó, nhà vua cũng mơ thấy một vị thần tướng,
mình mặc áo xanh, tay cầm lá cờ đỏ từ trên trời bay xuống trước mặt nhà vua tâu
rằng: “Thần phụng mệnh trời xuống báo với hoàng gia rằng trời đã sai Thủy
thần xuất thế, đầu thai vào làm con hoàng gia để đánh giặc cứu nước”. Từ đó,
cung phi mang thai, đến ngày mồng 6 tháng Giêng năm Ất Tỵ thì sinh ra một chàng
hoàng tử, khôi ngô tuấn tú. Kỳ lạ thay, ngay từ khi lọt lòng, hoàng tử đã biết
nói, biết đi, ăn như gió, tiếng nói vang như sấm khác hẳn người thường, nhà vua
thấy làm lạ bèn đặt tên là Câu Mang.
Câu Mang thông minh, ham học nên học một
biết mười, lên 9 tuổi, ông đã có nhiều phép lạ, gọi gió hô mưa, đi dưới nước
nhanh hơn đi trên cạn. Đến năm 19 tuổi, Câu Mang đã thông thạo thiên văn địa lý,
các phép thần thông và trở thành một người văn võ song toàn.
Khi Câu Mang đến tuổi trưởng thành thì nhà
vua băng hà, Hùng Duệ vương (Hùng Vương thứ 18) lên ngôi kế vị, lúc này nhiều
nơi trong thiên hạ thường xuyên xảy ra hạn hán, lụt lội, trộm cướp hoành hành.
Nhà vua bèn sai Câu Mang làm sứ thần, đi tuần thú trong thiên hạ để cầu đảo
trời mưa và dẹp yên giặc cướp.
Tương truyền, một hôm Câu Mang đến vùng đất Thiên Bản (thuộc thôn Cầu Nhân, xã Mỹ
Thuận, huyện Mỹ Lộc ngày nay), thấy nơi đây quanh năm bị lũ lụt, ông bèn chiêu
tập nhân dân đắp đê, sửa chữa nhà cửa, dự trữ lương thực, động viên mọi người
tham gia trị thủy. Một thời gian sau, công việc trị thủy do ông đứng đầu đã
hoàn tất, nhân dân trong vùng ai ai cũng thán phục. Từ đó trở đi, ông hay chu
du thiên hạ, giáo hoá nhân dân, dạy dân cày cấy, đoàn kết trị thuỷ. Đi đến đâu,
ông cũng được nhân dân hưởng ứng, xin nhận làm minh chủ và lập hành cung để
ngài ngự. Tiếng lành đồn xa, đến tận triều đình, nhà vua vui mừng bèn
triệu ông về kinh để ban thưởng và thăng chức.
Ông
trở về triều làm quan được 4 năm thì nước ta bị Chúa Thục sang xâm lược. Lúc
này, nhà vua đã phong cho ông làm Đô đốc mang 12 vạn quân cùng 200 chiến thuyền
đánh giặc. Ngay khi nhận được lệnh, ông đã đem quân vào thẳng vùng Châu Hoan,
giao chiến với giặc một trận lớn, quân giặc thua to, buộc Chúa Thục phải chạy
về nước, đất nước ta trở lại thanh bình.
Câu
Mang trở về kinh thành dâng biểu báo công. Nhà vua vui mừng cho giết trâu, bò,
khao thưởng quân sỹ, ban tước lộc cho các tướng. Ông được phong tước Đại vương,
được ban thực ấp tại huyện Thiên Bản.
Một
năm sau, nước ta có giặc Ba La sang đánh chiếm, nhà vua phong cho ông là Thủy
tào Thượng tướng, thống lĩnh thủy quân đánh giặc. Bằng tài đức của mình, ông đã
chỉ huy quân sỹ đánh tan quân giặc.
Sau khi thắng trận trở về, ông vâng mệnh
vua hồi triều, ngự trên thuyền rồng, khi ra đến khỏi cửa Hội, bỗng thấy sấm sét
vang trời, sóng biển dâng cao hàng đàn cá côn, cá kình, cá ngạc lướt tới chỗ
ông ngự, bỗng thấy hào quang sáng nhoáng Câu Mang hoá thành rắn vàng trở về
biển, khi đó là ngày mồng 6 tháng 11.
Nghe tin ông mất, nhà vua vô cùng thương
tiếc bèn sai sứ thần đến nơi Câu Mang hóa làm lễ, truyền cho nhân dân địa
phương lập đền thờ phụng, gia phong làm Thượng đẳng phúc thần. Tương truyền,
sau khi Câu Mang đại vương mất, người dân ở những nơi lúc sinh thời ông đi qua
và lập hành cung thì đều lập đình thờ phụng. Theo Địa chí Văn hóa huyện Vụ
Bản
của nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam khảo cứu và biên soạn viết: “Nhà vua thấy Mang công có nhiều công lao
với nước, liền phong làm Đại vương Thượng đẳng phúc thần, sai sứ đến nơi ngài
hóa lập đền thờ ở cửa biển, truyền lại cho nhân dân địa phương viết thần hiệu
ngài để phụng thờ. Lại truyền cho các trang ấp trước đây có lập sinh từ hoặc
đồn doanh, hành cung đều về kinh đón sắc về lập đền thờ…”.
Như vậy việc thờ tự Câu Mang đại vương
tại đình Cầu Nhân cũng như nhiều ngôi đình khác trong cả nước không chỉ
thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn” đối với một vị tướng có công đánh giặc mà còn là một sự tri ân
đối với người đã có công dạy dân cày cấy, phát triển sản xuất, đem lại cuộc
sống ấm no cho dân lành. Hiện nay tại di
tích đình Cầu Nhân còn lưu giữ 3 đạo sắc phong thời Nguyễn, trong đó đạo sắc niên hiệu Thành Thái 1 (1889), vua đã ban chiếu
chỉ chuẩn cho thôn Cầu Nhân, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản tiếp tục phụng
thờ và phong cho Câu Mang Đại vương là Thượng đẳng thần, nội dung đạo
sắc (dịch) như sau:
“Sắc
tôn thần Câu Mang, bảo vệ đất nước che chở dân, linh thiêng ứng nghiệm rõ rệt.
Vào năm Tự Đức (1848- 1883) Lễ thần bàn định tâu lên. Nay được kế thừa mệnh
lớn, luôn ghi nhớ đến sự tốt đẹp của thần, phong tặng rõ ràng là Túy mục Dực
bảo Trung hưng Thượng đẳng thần (thần Thượng đẳng Thuần túy hòa mục, phò giúp
nền chính trị thịnh trị). Chuẩn chô thôn Cầu Bông, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định theo trước phụng thờ thần, thần hãy che chở, bảo vệ dân ta”.
Đình Cầu Nhân phối thờ Thiên Đá Chính cung Công chúa
Căn cứ
vào nội dung của đạo sắc phong còn lưu giữ tại di tích thì đình Cầu Nhân ngoài
thờ Câu Mang đại vương còn phối thờ vị thần, hiệu là: “Thiên Đá Chính cung
Công chúa”. Mặc dù thần tích, thần phả đều không còn nhưng theo truyền ngôn
của các cụ cao tuổi trong làng cho biết việc thờ tự vị thần này bắt nguồn từ việc
thôn Cầu Nhân xưa là một vùng chiêm trũng. Người dân luôn phải đối mặt với muôn
vàn thiên tai, bão gió nên dân làng đã thờ phụng với ý nghĩa mong muốn vị thần
bảo hộ cho công cuộc làm ăn sinh sống của mình.
Dù lai lịch của vị thần chưa thật sự rõ ràng nhưng
theo truyền thuyết dân gian thì Thiên Đá là một vị tướng có công giúp vua Lý
Nam Đế đánh đuổi giặc Lương lập nên nước Vạn Xuân. Sau khi mất, Thiên Đá thường
hiển linh phù giúp dân lành nên được các triều đại phong kiến ban tặng sắc
phong. Hiện nay tại di tích còn lưu giữ một đạo sắc phong, có nội dung phong
tặng cho Thiên Đá Chính cung Công chúa, đồng thời khẳng định rõ chức năng “Hộ
quốc” và “Tí dân” của bà. Chức năng “Hộ quốc” là đại diện
cho vua cai trị các thần làng và nhân dân, tham gia chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ độc lập dân tộc. Chức năng “Tí dân” là phù hộ nhân dân, đem lại mưa
thuận gió hoà, xã hội an ninh, không bị tai ương thiên tai địch hoạ. Nội dung
đạo sắc ngày 25 tháng 7, niên hiệu Khải Định 9 (1924) hiện đang lưu giữ tại
đình Cầu Nhân được chép (dịch) như sau:
“Sắc
thôn Cầu Nhân, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định phụng thờ tôn thần
Thiên Đá Linh Ứng Chính cung Công chúa, bảo vệ đất nước che chở nhân dân linh
thiêng ứng nghiệm rõ riệt. Nay gặp dịp Trẫm mừng thọ 40 tuổi, đã ban ơn tặng
bảo chiếu, long trọng làm lễ tăng thưởng phẩm trật, phong tặng rõ ràng là Trinh
uyển Dực bảo Trung hưng tôn thần (tôn thần chính trực vữn vàng, nhún thuận, phò
giúp chính trị thịnh trị). Chuẩn cho phụng thờ thần, thần hãy che chở bảo vệ
dân ta”.
Đình Cầu
Nhân liên quan đến các phong trào cách mạng kháng chiến tại địa phương
Gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của làng xã, di tích đình Cầu Nhân đã trở thành nơi
ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và có những đóng góp không nhỏ vào
thành tích chung của địa phương trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân
tộc.
Khi
Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, nhân dân các thôn làng ở huyện Vụ Bản,
trong đó có nhân dân thôn Cầu Nhân cùng nhân dân trong tỉnh hưởng ứng lời kêu
gọi của Mặt trận Việt Minh đứng lên tham gia giành chính quyền. Ngày 21 tháng 8
năm 1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Vụ Bản thành công, Uỷ ban cách
mạng lâm thời của huyện đã cử đồng chí Ngô Đình Thân về tham gia chỉ đạo, vận
động quần chúng nhân dân xã Hiển Khánh tổ chức mít tinh giành chính quyền. Đến
ngày 25 - 8- 1945, Chính quyền cách mạng lâm thời xã được thành lập do đồng chí
Cảo (Thượng Đồng), được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Phóng (Cầu Nhân) làm Ủy viên
quân sự. Các đoàn thể quần chúng cách mạng cũng lần lượt ra đời. Từ đây, nhân
dân địa phương thực sự được làm chủ vận mệnh cuộc sống của mình, ra sức lao
động sản xuất và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Cuối năm 1946, thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Thực hiện Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến
của Chính phủ và Hồ chủ tịch, toàn thể chính quyền, nhân dân địa phương tham
gia kháng chiến. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Vụ Bản, nhân dân địa phương khẩn
trương xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Mỗi thôn, xã xây dựng một trung đội
để làm nhiệm vụ xây dựng bảo vệ chính quyền, giữ gìn an ninh trật tự trong thôn
xóm. Ngoài nhiệm vụ lao động sản xuất, lực lượng dân quân tự vệ còn thường
xuyên chôn mìn, giật mìn để chặn đánh giặc Pháp khi chúng đi qua tuyến đường Hà
Nội - Nam Định. Lúc này, đình Cầu Nhân là nơi hội họp, luyện tập của dân quân
du kích xã.
Để việc lãnh đạo, chỉ đạo
trong kháng chiến được thuận lợi, năm 1947, theo chỉ thị của cấp trên, hai xã: Đại
Lão, Hiển Khánh hợp nhất thành xã Khánh Lão. Đến năm 1948, Chi bộ Đảng của xã Khánh
Lão được thành lập do đồng chí Lê Mạnh Căn (thôn Cầu Nhân) làm Bí thư. Trong
thời gian này, đình Cầu Nhân là một trong những địa điểm hội họp của Chi bộ
Đảng để quyết định những nhiệm vụ cách mạng tại địa phương.
Cuối năm 1949, đầu năm 1950, thực dân Pháp
thực hiện kế hoạch RơVe, hòng khóa chặt biên giới Việt -Trung, củng cố mở rộng
vùng chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ. Giặc Pháp tăng quân số cho bốt Lê Xá, bốt
An Lão, đóng thêm bốt Cầu Họ, bốt Bất Di, bốt Gôi. Hệ thống đồn bốt được dựng
xong, quân Pháp tiến hành càn quét, bắt bớ, tra tấn cán bộ cách mạng cùng nhân
dân trong toàn huyện Vụ Bản. Mặc dù địa phương luôn nằm dưới sự kiểm soát gắt
gao của địch song trong suốt thời gian hai năm bốn tháng từ tháng 10 năm 1949 đến
tháng 2 năm 1952, quân và dân trong xã tích cực đóng góp sức người, sức của cho
cuộc kháng chiến. Trong thời gian này, đình Cầu Nhân còn được sử dụng là địa điểm
tập kết của bộ đội chủ lực, dân quân du kích xã chặn đánh các trận càn quét của
địch từ bốt Lê về bốt cầu Họ.
Từ sau hoà bình lập lại, tiếp đến những năm
kháng chiến chống Mỹ (1965-1975) cứu nước, nhân dân địa phương không ngừng phát
huy truyền thống cách mạng, phấn đấu cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược quan trọng là “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước”. Lúc này, đình Cầu Nhân trở thành địa điểm đưa tiễn
con em quê hương lên đường vào Nam
đánh giặc, đồng thời là nơi học tập chính trị, huấn luyện quân sự cho dân quân
du kích xã để sẵn sàng bảo vệ bà con trong làng khi bị giặc Mỹ ném bom.
Sau ngày đất nước thống nhất, đình Cầu Nhân trở thành nơi
thờ tự, nơi diễn ra các nghi lễ phục vụ cho đời sống tín ngưỡng của nhân dân.
Tất cả những sự kiện lịch sử diễn ra tại đình Cầu
Nhân qua các phong trào cách mạng và kháng chiến, nhất là trong kháng chiến
chống Pháp đã ghi nhận quá trình đấu tranh của nhân dân địa phương nơi
đây. Đồng thời cũng là những chứng cứ lịch sử khẳng định giá trị của di tích,
góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ con em tại địa phương.
SINH
HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Từ bao đời nay, đình Cầu Nhân luôn được dân
làng gìn giữ bảo vệ và coi đây là một bộ phận quan trọng cấu thành nên đời sống
văn hoá tinh thần cho đông đảo người dân trong vùng. Di tích không chỉ là nơi
thờ phụng tri ân công đức vị thần Câu Mang đại vương, Thiên Đá Chính cung Công
chúa mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống của làng xóm quê
hương.
Theo những bậc cao niên trong làng kể lại,
vào những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, mặc dù đời sống nhân dân
trong làng còn gặp nhiều khó khăn song hàng năm địa phương vẫn tổ chức lễ hội
nhằm nhắc nhở cháu con phát huy truyền thống ông cha, giữ gìn thuần phong mỹ
tục.
Hàng năm tại đình Cầu Nhân, dân làng
thường tổ chức 2 kỳ lễ: Lễ kỷ niệm ngày sinh của Câu Mang đại vương (ngày 6
tháng Giêng) và lễ kỷ niệm ngày hóa của Câu Mang đại vương (ngày 6 tháng 11).
* Lễ kỷ niệm ngày sinh của Câu Mang đại vương: Được tiến hành trong 2 ngày, bắt đầu từ ngày mồng 5 và kết thúc vào ngày 6 tháng Giêng âm lịch.
Trước
khi diễn ra lễ hội, dân làng đã hoàn tất các việc như bao sái đồ thờ
tự, quét dọn vệ sinh khuôn viên phong quang, sạch sẽ. Các thủ tục, chương
trình và mời khách tham dự lễ hội được Ban tổ chức nhanh chóng hoàn tất. Những
thành viên trong các đội cờ, đội tế, múa rồng đã bắt đầu luyện tập để chuẩn bị
tham dự lễ hội. Không
khí chuẩn bị cho ngày hội thật sôi nổi, rộng khắp đến từng ngõ xóm gia đình.
Ngày mồng 5, mở đầu buổi lễ, một vị đại
diện cho chính quyền địa phương lên đọc diễn văn khai hội. Sau diễn văn khai
hội, đội tế nam quan và nữ quan tiến hành nghi thức tế cáo, xin phép thần linh
cho mở cửa đình để dân làng bắt đầu bước vào kỳ lễ hội. Sau nghi thức tế cáo,
các đoàn hội trong và ngoài làng rước lễ vật vào lễ Thánh. Lễ vật dâng lên tuy
đơn giản nhưng đó là thành quả lao động trong một năm mà người dân địa phương
đã vất vả lao động, thể hiện sự nâng niu, quý trọng phẩm vật mà mình làm ra, từ
đó tỏ rõ lòng thành kính, tri ân công đức đối với các vị thần.
Sáng ngày 6, dân
làng tề tựu đông đủ tại đình để tham gia nghi thức “rước kiệu thánh” xung
quanh làng. Tham dự đoàn rước gồm nhiều thành phần như đội cờ ngũ sắc, cờ thần,
tiếp sau là phường bát âm với các loại nhạc cụ cổ truyền, tiếp đến là đội tế
nam quan và nữ quan. Theo cùng đoàn rước còn có các lão ông, lão bà chức sắc
địa phương và đông đảo nhân dân tới tham gia. Tiếng trống, tiếng kèn hoà cùng
tiếng hô gọi của người chỉ huy khênh kiệu khiến cho bầu không khí ngày hội trở
nên tưng bừng náo nhiệt. Khi đoàn rước về tới sân đình, các kiệu được xếp hàng
ngay ngắn, đồ thờ tự được đưa vào khu nội tự, chuẩn bị làm lễ dâng hương. Sau
lễ dâng hương, một cụ già cao tuổi thay mặt cho dân làng đọc chúc văn để ôn
lại công lao to lớn của vị thần được thờ tại di tích. Tiếp đến, mọi
người tổ chức tế nam quan và nữ quan.
Chiều ngày mồng
6, dân làng tổ chức tiệc yến lão và khao lão cho các cụ già từ 70
tuổi trở lên. Vào ngày này các cụ già từ 70 tuổi trở lên được con
cháu và nhân dân mời đến đình làng để tổ chức mừng thọ. Đây là một
truyền thống kính trọng người già từ bao đời nay nên được các thế hệ
người dân địa phương nơi đây giữ gìn và thực hiện chu đáo.
Bên cạnh những nghi thức tế lễ, hội đình
Cầu Nhân còn tổ chức các trò chơi dân gian như: Hát chèo, kéo co, chọi gà, chơi
cờ, tổ tôm điếm… góp phần
làm cho không khí lễ hội thêm phần náo nhiệt. Những trò chơi tập thể này giúp
cho người tham gia lễ hội có cơ hội để rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai, khéo
léo, nhanh nhẹn…đồng thời
thể hiện tinh thần đoàn kết cộng cảm, cùng nhau vượt khó của người dân.
*Lễ
hội kỷ niệm ngày hóa của Câu Mang đại vương: Hàng năm cứ vào ngày 6 tháng
11, người dân làng Cầu Nhân lại tưng bừng mở lễ hội kỷ niệm ngày hóa
của Câu Mang đại vương.
Buổi sáng ngày 6, dân làng tập trung
đông đủ tại sân đình để dâng lễ vật lên Đức thánh. Sau đó, nhân dân tiến
hành làm lễ dâng hương, cầu mong các vị thần ban phúc lành để mọi người được
bình an, khoẻ mạnh, mùa màng bội thu. Khi lễ dâng hương kết thúc, một cụ già
cao tuổi thay mặt cho dân làng đọc chúc văn để ôn lại công lao to lớn của
các vị thần được thờ tại tại tích. Tiếp đến dân làng tổ chức tế nam
quan và nữ quan tại sân đình.
Buổi chiều, dân làng tổ chức họp để tổng
kết những việc đã thực hiện được trong năm qua và đề ra kế hoạch cho năm mới.
Sau đó, tiến hành lễ tạ và đóng cửa đình kết thúc kỳ lễ tháng 11.
Nhìn
chung, lễ hội và những sinh hoạt văn hoá diễn ra tại đình Cầu Nhân hiện nay tuy
ở phạm vi hẹp và đơn giản hơn về nghi lễ, song phần nào thể hiện lòng biết ơn sâu
sắc của nhân dân địa phương đối với các đấng thần linh. Đồng thời phản ánh đời
sống tinh thần phong phú của người dân ở một vùng quê giàu truyền thống văn hoá
và cách mạng.
KHẢO TẢ DI TÍCH
Lịch sử xây
dựng
Căn cứ vào các hiện
vật còn lưu giữ tại di tích cùng truyền ngôn của các cụ cao tuổi ở địa phương
thì đình Cầu Nhân được khởi dựng vào thế kỷ thứ XVI, trên khu đất Mả Hiệu thuộc
gò đất cạnh cánh đồng thôn Cầu Nhân ngày nay. Đình có mặt bằng kiến trúc kiểu
chữ “丁” (đinh), gồm 2 tòa: tiền đường 2 gian, hậu cung 1 gian, bộ khung bằng
gỗ lim, mái lợp ngói nam. Sau đó, ngôi đình được di chuyển tới khu đất
phía Đông làng (cách vị trí cũ của ngôi đình khoảng 500m về phía Đông). Đến
thời Nguyễn, niên hiệu Khải Định 5 (1920),
đình Cầu Nhân được chuyển về vị trí hiện nay (cách vị trí ban đầu khoảng 800m
về hướng Đông Nam).
Qua nghiên cứu, khảo sát
những cấu kiện gỗ, thượng lương thì đình Cầu Nhân được trùng tu, tôn
tạo lớn vào các năm: 1861, 1877, 1920 và 1924. Trong lần tu sửa vào
1877, gia đình cụ Bá Đông (thôn Cầu Nhân) đã công đức tiền của xây thêm 1 tòa 5
gian. Hiện trên thượng lương toà tiền đường khắc dòng chữ Hán:
“Tự Đức tam thập niên, tuế thứ Đinh Sửu, bát
nguyệt, sơ thất nhật, thụ trụ thượng lương”.
(Nghĩa là: Ngày 7 tháng 8,
năm Đinh Sửu niên hiệu Tự Đức 30 (1877), dựng thượng lương.
Thượng lương tòa hậu
cung khắc dòng chữ Hán:
“Đại Nam Khải Định ngũ niên, tuế Canh Thân,
nhị nguyệt, thập tam nhật di tu, thụ trụ thượng lương, đại cát”.
(Nghĩa là: Ngày 13 tháng 2,
năm Canh Thân niên hiệu Khải Định 5 (1920), di chuyển, tu sửa, đặt thượng
lương, mọi việc tốt.
Mặc dù đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần nhưng do ảnh hưởng của thời gian cùng
sự khắc nghiệt của khí hậu, ngôi đình bị xuống cấp. Đến năm 2016, dân làng đã
đóng góp tiền của (hơn 400 triệu đồng) để tu bổ tôn tạo lại công trình. Hiện
nay, ngôi đình có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ “三” (tam) gồm 3 tòa: Tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian,
hậu cung 3 gian, bộ khung bằng gỗ
lim, mái lợp ngói nam.
Công trình kiến trúc
Đình Cầu Nhân tọa lạc trên khu đất có diện tích rộng 813m2, mặt quay hướng Đông
Nam. Nhìn từ ngoài vào trong,
đình gồm các thành phần kiến trúc:
Cổng, sân và công trình kiến
trúc chính.
Cổng: Quay
hướng Đông, làm theo lối đơn giản gồm một cửa ra vào rộng 3,20m, được tạo dựng
bởi 2 cột trụ vuông, có kích thước: cao 2,65m, cạnh rộng 0,34m.
Sân: Có diện tích rộng 324m2, nền lát gạch đỏ, đây là nơi diễn ra các
hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng qua mỗi kỳ tổ chức lễ hội.
Công trình kiến trúc chính: Đình Cầu Nhân có kiến
trúc theo kiểu chữ “三 ” (tam) gồm 3
tòa: tiền đường, trung đường và hậu cung.
Tòa
tiền đường dài 13,30m, rộng 6,30m, chia thành 5 gian, các gian có kích thước:
Gian giữa rộng 2,90m, hai gian hai bên rộng 2,40m và hai gian đầu hồi rộng 2,80m.
Nền tiền đường lát gạch và được tôn cao hơn mặt sân 0,65m, phía trước có bậc
lên xuống cùng lớp hiên rộng 0,92m. Nâng đỡ mái hiên là 6 cây bẩy dài 1,20m, thân
bẩy được chạm bong họa tiết lá lật, đầu bẩy khắc chữ “thọ”.
Mái tòa tiền đường gồm 2 mái dốc, lợp ngói nam, bờ nóc đắp thẳng, hai đầu kìm đắp họa tiết
hình rồng. Cách hai đầu hồi hiên về phía trước của đình khoảng 1,60m xây
hai cột hoa biểu, cao 5m, cạnh 0,95m, chân cổ bồng, đỉnh đắp họa tiết hình
nghê, vân mây, lồng đèn, thân cột tạo câu đối nhấn vữa chữ Hán ca ngợi công lao
của các vị thần được thờ tại di tích.
Ngăn cách giữa hiên và toà tiền đường là
hệ thống cửa ra vào. Bộ cửa tiền đường được gia công bằng gỗ, theo kiểu thượng
chấn song hạ bức bàn, chạy dọc 3 gian giữa của công trình. Khoang cửa giữa
gồm 6 cánh, có kích thước cao 1,90m, rộng 0,45m. Hai khoang cửa còn lại mỗi khoang
4 cánh, có kích thước giống khoang cửa giữa. Toàn bộ hệ thống cửa được đặt
trong khung gỗ lắp chân quay vừa tạo thế trang nghiêm kín đáo, vừa thuận tiện
cho việc đóng mở. Hai gian đầu hồi trổ cửa thông gió kiểu chữ “thọ” nhằm
tạo sự thông thoáng và mở rộng không gian thờ tự cho đình làng.
Bộ
khung tòa tiền đường được tạo dựng bởi sự liên kết của 6 bộ vì bằng gỗ, được
thiết kế theo kiểu bốn hàng chân cùng hệ thống xà dọc, xà ngang có tác dụng giằng giữ, tạo sự chắc chắn,
thông thoáng cho công trình. Mỗi bộ vì đều có hai dạng vì liên
kết chủ yếu là: vì nóc và vì nách.
Vì nóc: được gia
công theo kiểu câu đầu, chồng rường, giá chiêng. Câu đầu tại vì nóc có chức
năng đỡ hai trụ non cao 0,30m. Một đầu trụ non tì lực vào câu đầu, đầu trên
ghép mộng nâng đỡ hệ thống con rường thượng. Giữa con rường thượng kê đấu
vuông đỡ thượng lương. Hai đầu con rường thượng đặt guốc hoành đỡ 6 cây hoành của mái trước và mái sau công
trình. Nối vào thân hai trụ non mỗi bên còn có hai con rường ngắn đỡ hoành của
mái trước, mái sau. Ngoài việc tạo dáng soi chỉ, các cấu kiện trên vì
nóc còn được chạm khắc hoạ tiết hoa lá mềm mại.
Vì nách: Có hai loại là vì mái
trước và vì mái sau, được
làm theo kiểu kẻ chuyền, cùng với hệ thống hoành mái nối song song giữa các cột
nhằm cố định toàn bộ khung công trình.
Nâng đỡ 6 bộ vì này là hệ thống cột gồm 12
cột cái, cao 4m, đường kính 0,35m, và 12 cột quân, cao 3,60m, đường kính 0,27m.
Tất cả các cột đều được làm theo kiểu búp đòng và đặt trên chân tảng bằng đá.
Tòa trung đường được xây nối liền với tòa
tiền đường thông qua hệ thống máng nước, có kích thước dài 7,60m, rộng 4m, chia
thành 3 gian, hai gian bên rộng 2,35m, gian giữa rộng 2,90m. Mái tòa trung
đường lập ngói nam, nền nhà lát gạch Bát Tràng và cao hơn tòa tiền đường 0,30m.
Bộ khung toà trung đường
bằng gỗ lim, gồm 4 bộ vì, thiết kế theo kiểu 2 hàng chân (trốn cột cái). Nâng
đỡ 4 bộ vì này là 8 cột quân cao 2,70m, đường kính 0,23m. Tất cả các cột đều
được tạo dáng búp đòng, kê trên chân tảng bằng đá. Hai bộ vì đầu hồi được làm
theo kiểu ván mê, bảy tiền, bảy hậu. Hai bộ vì giữa thiết kế kiểu thượng ván
mê, hạ chồng rường, bảy tiền, bảy hậu. Các cấu kiện cơ bản của 4 bộ vì gồm: ván
mê, con rường, trụ non, bẩy, câu đầu và được chia làm 3 phần chính: vì nóc, vì
nách và bảy tiền, bảy hậu.
Vì nóc: 4 bộ vì nóc của tòa trung đường
đều được gia công theo kiểu câu đầu ván
mê. Các ván mê được soi chỉ, khoét mộng đặt trên cấu kiện hoành của vì
mái. Ở giữa ván mê trổ thủng 1 ô hình vuông. Đỉnh ván mê đỡ thượng lương, phía
dưới là câu đầu nối liền với 2 đầu của trụ lửng. Trên các ván mê, câu đầu chạm khắc
họa tiết lá lật, gờ chỉ
mềm mại làm tăng thêm thẩm mỹ cho công trình.
Vì nách: Được chia thành 2 loại: vì mái trước và vì mái
sau. Hai bộ vì nách gian đầu hồi kết cấu kiểu ván mê, hai bộ vì gian giữa được
thiết kế kiểu chồng rường. Mỗi bộ vì nách gồm 2 con rường được liên kết với
nhau thông qua các đấu rế.
Bẩy tiền,
bẩy hậu của 4 bộ vì đều được tạo dựng bởi các cây bẩy có thân tròn, đường
kính khoảng 0,30m. Trên cấu kiện gỗ của các bộ vì như: con rường, câu đầu,
bẩy, ngoài việc tạo dáng soi chỉ mềm mại còn được chạm khắc họa tiết lá lật,
chữ “Thọ” có phong cách nghệ thuật
thời Nguyễn.
Từ tòa trung đường sang tòa hậu cung là một hiên
nhỏ, có kích thước dài 5,20m, rộng 1,40m, nền lát gạch Bát Tràng và cao hơn tòa
trung đường 0,15m. Mái hiên lợp ngói nam và được tạo dựng bởi 4 bộ vì. Hai
bộ vì đầu hồi được làm theo kiểu ván mê, hai vì giữa được thiết kế thành hai
bẩy hiên của công trình. Phần nội tâm
của tòa hậu cung được ngăn cách với hiên bởi 3 khoang cửa hình chữ nhật, cao 1,40m. Hai khoang bên rộng 0,65m, lắp 2 cánh cửa,
khoang giữa rộng 1,55m, lắp 4 cánh cửa. Các cánh cửa đều được làm bằng gỗ, theo
kiểu bức bàn và đặt lắp chân quay.
Tòa hậu cung
dài 5,20m, rộng 4,10m, chia thành 3 gian, 2 gian bên rộng 1,20m, gian giữa rộng
2,80m. Bộ khung được làm bằng gỗ lim, gồm 4 bộ vì kiểu 3 hàng chân cột (trốn
cột cái phía sau). Nâng đỡ 4 bộ vì này là hệ thống cột gồm 4 cột cái cao 2,90m,
đường kính 0,30m, 4 cột quân cao 2,20m, đường kính 0,25m, 4 cột hiên 2,70m,
đường kính 0,30m. Các cột được làm tương tự như cột ở tòa trung đường. Nếu hai
bộ vì đầu hồi được làm theo kiểu vì nóc câu đầu quá giang, vì nách ván mê, bảy
tiền, bảy hậu thì hai bộ vì giữa lại được thiết kế theo kiểu thượng ván mê, hạ
kẻ ngồi. Để tăng thêm giá trị nghệ thuật cho công trình, hệ thống kẻ ngoài việc
uốn cong mềm mại còn được tạo chỉ kép ở hai bên tạo nên sự thanh thoát cho bộ
khung công trình.
Mái tòa hậu cung lợp ngói nam, nền lát gạch Bát
Tràng. Gian giữa toà hậu cung là nơi đặt khám, ngai thờ Câu Mang đại
vương và Thiên Đá Chính cung Công chúa.
Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Vụ
Bản, Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hiển Khánh thì huyện Vụ Bản nguyên là
huyện Thiên Bản. Địa danh Thiên Bản có từ rất sớm. Đến thời Trần, Thiên Bản
thuộc phủ Kiến Hưng, thời Minh đổi tên là Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình, thời Lê
lấy lại tên Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng, đến cuối thời Nguyễn đổi lại thành
huyện Vụ Bản.
Địa chí Văn hóa huyện Vụ Bản,
Bùi Văn Tam khảo cứu, biên soạn. Nxb.Thông tin và Truyền thông, Hà
Nội, 2016.
Đình
Cầu Nhân hiện lưu giữ được một số hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học với các thể loại và chất liệu khác nhau như: đá,
gỗ, sứ, đồng, giấy… (Chi tiết xin xem ở Bản thống kê hiện vật thuộc di tích). Sau
đây là một số hiện vật có giá trị tiêu biểu:
Sắc phong: Hiện nay tại di tích còn lưu giữ được 4 đạo sắc phong. Về niên đại, đạo sắc sớm nhất ngày 8 tháng 10 niên hiệu Thành Thái 1 (1889), đạo sắc muộn nhất
ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định 9 (1924). Về chất liệu, các đạo sắc này đều
được viết trên nền giấy dó truyền thống, kích thước
trung bình dài khoảng 130cm, rộng khoảng
50cm. Về
hình thức, sắc viết bằng chữ Hán trên
nền vẽ rồng, vân mây, 4 góc tạo thành 4 ô vẽ đề tài tứ linh, diềm sắc vẽ hoa
văn cẩn quy, hình học. Về nội dung 3 đạo sắc có các niên hiệu: Thành Thái 1 (1889), Duy Tân 3
(1909) và Khải Định 9 (1924), ghi nhận công lao và phong thần cho Câu
Mang đại vương, 1 đạo sắc có niên hiệu Khải Định 9 (1924), phong cho Thiên Đá
Chính cung Công chúa.
Ngai
thờ Câu Mang đại vương: Được đặt tại tòa hậu cung, có kích thước cao 117cm,
rộng 60cm, dài 70cm. Tay ngai tạo hình đầu rồng, hai bên tay ngai là trụ ngai
được tạo dáng hình con tiện, chạm hoạ tiết rồng leo. Hậu ngai chia thành 3 ô
nhỏ, trên các ô đục chạm thông phong hình rồng, phượng. Phần cổ đẳng trang trí
hoạ tiết rồng leo, hoa lá. Chân tạo dáng chân quỳ dạ cá, đế chạm hình rồng.
Toàn bộ khám được sơn son thếp vàng và có niên đại thời Nguyễn.
Đại
tự:
Được treo tại tòa trung đường, bằng gỗ, hình chữ nhật, có kích thước dài:
160cm, rộng 40cm, diềm trên chạm họa tiết hình rồng, bên trong nền đỏ chia
thành 4 ô, khắc nổi 4 chữ Hán màu vàng: “Thánh cung vạn tuế”. Căn
cứ vào hoạ tiết, đường nét trang trí thì đại tự có niên đại thời Hậu Lê, thế kỷ
thứ XVIII.
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ,
VĂN HÓA, KHOA HỌC, THẨM MỸ CỦA DI TÍCH
Đình Cầu Nhân là di tích có giá trị tiêu
biểu về lịch sử, là nơi để nhân dân thờ phụng vị thần Câu Mang đại vương. Ông là
một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, có công đánh giặc giữ nước, dạy dân cày cấy,
đem lại cuộc sống ấm no cho người dân. Sau khi ông mất, nhân dân nhiều nơi
trong đó có nhân dân làng Cầu Nhân lập đình thờ phụng. Tín ngưỡng thờ phụng đức
thánh Câu Mang đại vương tại đình Cầu Nhân không chỉ mang ý nghĩa tôn thờ vị
tướng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc mà còn trở
thành thờ vị thần nông nghiệp, bảo trợ cho công cuộc làm ăn của cư dân trồng
lúa nước.
Đình Cầu Nhân còn phối hợp thờ vị thần
Thiên Đá Chính cung Công chúa. Đây là vị thần mang đậm yếu tố dân gian, huyền
thoại nhưng đối với nhân dân địa phương thì vị thần trên đã gắn bó và luôn phù
trợ cho công cuộc làm ăn của nhân dân ngày thêm phồn vinh thịnh vượng.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Cầu Nhân là cơ
sở cách mạng của địa phương, là nơi tập trung, huấn luyện và hoạt động của bộ
đội chủ lực, dân quân du kích xã. Điều đó càng tô đậm truyền thống đấu
tranh cách mạng của nhân dân, góp một phần vào sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc.
Công trình kiến trúc đình Cầu Nhân từ khi khởi dựng đến nay vẫn bảo lưu được những giá trị kiến trúc nghệ
thuật truyền thống. Những mảng chạm khắc tinh xảo trên các cấu kiện gỗ ở
đây mang đặc trưng phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Tại di tích, còn lưu giữ được nhiều
di vật, cổ vật như: Sắc phong, ngai thờ, mịch thờ, đại tự, câu đối,…có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thẩm mỹ, giúp tìm hiểu về văn hóa, mỹ thuật của xã hội đương thời.
Bên cạnh giá trị về lịch sử và kiến trúc
nghệ thuật, hàng năm tại đình Cầu Nhân diễn ra lễ kỷ niệm ngày sinh, ngày mất
của Câu Mang đại vương. Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa tri ân công đức đối với
các bậc tiền nhân mà còn là nguồn lực nội sinh, tạo ra sức mạnh để người dân
bước vào công cuộc đổi mới xây dựng quê hương giàu đẹp văn minh, xứng đáng với
vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.
THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Đình Cầu Nhân là công trình tín ngưỡng tiêu biểu của địa phương
hiện được bảo quản tốt. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cùng với sự tác
động của thiên nhiên và chiến tranh, di tích đã trải qua 3 lần di chuyển,
trùng tu tôn tạo nhiều lần. Trên thượng lương
tòa tiền đường còn ghi rõ lần trùng tu, tôn tạo vào năm Đinh Sửu niên
hiệu Tự Đức 30 (1877). Điều đó đã ghi nhận sự nhiệt tâm và thái độ trân trọng của người dân địa
phương đối với việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Trong những năm gần đây,
cùng với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự hảo tâm đóng góp của những
người con xa quê, chính quyền và nhân dân địa phương đã quan tâm đến việc tu bổ
di tích. Do vậy, nhiều hạng mục đã được tu bổ, tôn tạo đồng bộ, đúng kỹ thuật
nên công trình ngày một khang trang, bền đẹp.
Để bảo tồn và phát huy hơn nữa giá trị của di tích,
đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, Ban bảo vệ di tích và nhân dân địa phương
thực hiện tốt những công việc sau:
- Thành lập Ban quản lý di tích, trong đó có sự tham
gia của lãnh đạo chính quyền địa phương. Ban di tích quản lý có trách nhiệm
thực hiện các quy định của Luật Di sản văn hóa và các quy định pháp luật khác có
liên quan trong việc tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.
- Có biện pháp chống mối mọt, ẩm mốc đối với các
cấu kiện gỗ và đồ thờ tự.
- Huy động thêm các nguồn
kinh phí xã hội hóa từ các cá nhân, tổ chức, nhân dân địa phương và tấm lòng
hảo tâm của những người con xa quê để tôn tạo lại nghi môn, bổ sung thêm câu
đối, đại tự, nhang án…; cải tạo khuôn viên và môi trường sinh thái của di tích.
- Tổ chức lễ
hội với nhiều hình thức sinh hoạt phong phú lành mạnh, thu hút đông đảo nhân
dân và khách thập phuong tham gia. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục truyền
thống quê hương và tri ân công đức đối với người có công, nâng cao tinh thần
đoàn kết trong nhân dân.
Đạo sắc
niên hiệu Khải Định 9 (1924), có kích thước dài 132cm, rộng 53cm. Đạo sắc niên
hiệu Duy Tân 3 (1909), dài 130cm, rộng 50cm. Đạo sắc niên hiệu Thành Thái 1 (1889)
dài 130cm, rộng 50cm.