image banner

anh tin bai

anh tin bai



image advertisement


image advertisement

anh tin bai

image advertisement
image advertisement
hiendienonline.tenmien.vn

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
LỄ DÂNG HƯƠNG TẠI DI TÍCH LỊCH SỬ ĐÌNH CẦU NHÂN NĂM 2025
Lượt xem: 77

Đình Cầu Nhân xã Mỹ Thuận thờ Câu mang đại vương và phối thờ Thiên Đá Chính cung Công chúa. Đình được khởi dựng vào thế kỷ thứ 16, mặc dù ngôi đình đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần nhưng đến nay di tích vẫn bảo lưu được phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Những mảng chạm khắc tinh xảo trên các kiện gỗ mang đặc trưng tiêu biểu của kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, thế kỷ 19.

Tại di tích còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị như: Đại tự, mịch thờ thời Hậu Lê (thế kỷ 18), ngai thờ, sắc phong, câu đối, bát hương thời Nguyễn. Đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, góp phần nghiên cứu về nhân vật, địa danh cũng như nghệ thuật thẩm mỹ đương thời. Di tịch Đình Cầu Nhân đã được UBND tỉnh Nam Định cấp Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh ngày 23/07/2024. Câu mang đại vương và Thiên Đá Chính cung Công chúa là 02 vị tướng đã có công xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngay từ buổi đầu dựng nước. Để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của cán bộ và nhân dân địa phương đối với công lao và tình cảm của các vị tướng. Thông qua lễ dâng hương nhằm giáo dục truyền thống của quê hương đất nước, con cháu thờ phụng tổ tiên, đây là nét đẹp của văn hóa tâm linh, đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam nói chung và quê hương Mỹ Thuận nói riêng cần được bảo vệ và phát huy.

Sáng ngày 02/02/2025 tức ngày 05/01 năm Ất Tỵ; UBND xã; Ban quản lý di tích; Ban khánh tiết Đình Cầu Nhân long trọng tổ chức lễ dâng hương tưởng nhớ 02 vị Tướng (Câu mang đại vương và Thiên Đá Chính cung Công chúa).

Về dự Lễ dâng hương có các đồng chí:Vũ Xuân Cảnh – Bí thư Đảng ủy, chủ tịch HĐND xã; Nguyễn Hồng Thao – Phó bí thư thường trực Đảng ủy; Nguyễn Văn Tài – Phó bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBND xã; Phạm Anh Tuấn – Phó chủ tịch UBND xã, Trưởng ban tổ chức. Cùng các đồng chí trong thường trực Đảng ủy, HĐND, UBND, UB MTTQ xã, trưởng các ban ngành đoàn thể, các đồng chí cán bộ, công chức xã, các trường, trạm, HTX; các đồng chí là bí thư, trưởng thôn, trưởng ban CTMT các cơ sở; cùng toàn thể cán bộ và nhân dân thôn Nhân Phú đã về dự lễ.

anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai

TÊN GỌI DI TÍCH:  ĐÌNH CẦU NHÂN

Tên gọi khác của di tích: Đình làng Bông.

ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH

Địa điểm di tích

Đình Cầu Nhân tọa lạc tại thôn Nhân Phú, xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

          Theo các nguồn tư liệu lịch sử[1], trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thôn Nhân Phú có tên là Cầu Bông thuộc xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản[2], phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đơn vị hành chính cấp xã có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới. Hai xã: Hiển Khánh và Đại Lão hợp nhất thành xã Khánh Lão, thôn Cầu Bông đổi tên thành thôn Cầu Nhân. Lúc này, di tích đình Cầu Nhân thuộc xã Khánh Lão[3], huyện Vụ Bản.

Tháng 10 - 1964, để đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của địa phương, 2 thôn Cầu Nhân và Đại Lão tách khỏi xã Khánh Lão[4], huyện Vụ Bản sáp nhập vào xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc. Đình Cầu Nhân thuộc xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Ngày 13 - 6 -1967, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 76 - CP, sáp nhập toàn bộ huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định. Đến ngày 16 - 2 - 1997, Chính phủ ra Nghị định số 19 - CP tái lập huyện Mỹ Lộc gồm 11 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: Mỹ Hà, Mỹ Phúc, Mỹ Hưng, Mỹ Tân, Mỹ Thành, Mỹ Thịnh, Mỹ Thắng, Mỹ Trung, Mỹ Tiến, Mỹ Thuận và Lộc Hòa (sau xã Lộc Hòa cắt về thành phố Nam Định). Năm 2003, thành lập thị trấn Mỹ Lộc.

Năm 2022, 3 thôn: Cầu Nhân, Phú Vinh, Đống Ba của xã Mỹ Thuận hợp nhất thành thôn Nhân Phú, xã Mỹ Thuận.

Như vậy, qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, đến nay, xã Mỹ Thuận là 1 trong 11 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn của huyện Mỹ Lộc, có vị trí địa lí: Phía Bắc giáp xã An Nội (huyện Bình Lục), phía Đông giáp xã Mỹ Thịnh, phía Tây Bắc giáp xã Minh Thuận (huyện Vụ Bản), phía Nam giáp đường 21; diện tích tự nhiên 864,65 ha; dân số 7500 người, phân bổ thành 10 thôn: Phúc, Lộc, Thọ, Hàn Thông, Nam Khánh, Đại Thắng, Nhân Phú, Lê Hồng Phong, Liên Minh, Quang Trung.

Đình Cầu Nhân nằm trên địa bàn thôn Nhân Phú, gần khu dân cư và quốc lộ 21A nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy giá trị.

Đường đi đến di tích

Về thăm di tích đình Cầu Nhân có thể đi theo nhiều đường nhưng thuận lợi nhất là những đường sau:

- Từ thành phố Nam Định theo quốc lộ 21A về hướng Hà Nội khoảng 12km, rẽ phải đi theo đường làng Bông 300m là tới di tích.

- Từ thành phố Phủ Lý tỉnh Hà Nam theo quốc lộ 21A về hướng Nam Định khoảng 19km, rẽ trái đi theo đường làng Bông 300m là tới di tích.

LOẠI HÌNH DI TÍCH

Căn cứ vào kết quả khảo sát, nghiên cứu và đánh giá giá trị của di tích theo Điều 11 Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa (2001) và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (2009), chúng tôi phân loại Đình Cầu Nhân là di tích Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật.

NHÂN VẬT, SỰ KIỆN LỊCH SỬ LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH        

Đình Cầu Nhân thờ Thành hoàng Câu Mang đại vương

Căn cứ vào các nguồn tư liệu Hán Nôm hiện lưu giữ tại di tích như: Câu đối, đại tự, sắc phong, thần tích và truyền thuyết tại địa phương thì vị thần được thờ tại đình Cầu Nhân là Thành hoàng Câu Mang đại vương. Ông không chỉ là một vị tướng có công đánh giặc giữ nước mà còn là hiện thân của vị thần nông nghiệp biểu trưng cho khát vọng cầu mùa của cư dân nông nghiệp trồng cấy lúa nước.

Theo tài liệu Kiểm kê di tích năm 2017[5], trên địa bàn huyện Mỹ Lộc có 13 di tích và huyện Vụ Bản có 10 di tích thờ Câu Mang đại vương. Mỗi di tích đều có bản thần tích riêng đề cập đến thân thế sự nghiệp của vị thần và liền với đó là những lí giải về việc phụng thờ vị thần đối với từng địa phương.

Theo Thần tích Hoàng tử triều Hùng Câu Mang đại vương ở đình Cầu Nhân (xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc) và đền Trang Nghiêm Thượng (xã Minh Tân, huyện Vụ Bản) thì Câu Mang hoá thành một con rắn vàng đầu thai vào một cung phi. Thần tích ở đền làng Bịch (xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản) thì Câu Mang hoá thành giao long đầu thai vào một gia đình nhà nho có bố là Cao Tố, mẹ là Trương Thị Khánh. Thần tích Phủ thờ làng Phú Lão (xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản) thì Câu Mang lại hoá thành rồng để đầu thai vào một nhà hào trưởng bố là Cao Hạo và mẹ là bà Trương Thị Vỹ.

Có thể thấy, Thần tích ghi chép về vị thần Câu Mang rất phong phú và đa dạng. Trong nội dung bản lý lịch di tích đình Cầu Nhân, xã Mỹ Thuận chúng tôi sử dụng nội dung bản Thần tích “Câu Mang đại vương triều Hùng”, hiện đang lưu giữ tại di tích đình Cầu Nhân và đền Trang Nghiêm. Nội dung bản thần tích ghi chép khá rõ về thân thế sự nghiệp của vị Thành hoàng Câu Mang đại vương như sau:

Tại vùng đất thuộc quận Đà Bắc, có gia đình họ Phạm sinh được một người con gái sắc nước hương trời, được vua Hùng tuyển chọn làm cung phi thứ 3. Một hôm, cung phi nằm nghỉ, mơ màng thấy một con rắn vàng, đầu đội mũ sao từ trên trời bay xuống giáng vào người. Trong thời gian đó, nhà vua cũng mơ thấy một vị thần tướng, mình mặc áo xanh, tay cầm lá cờ đỏ từ trên trời bay xuống trước mặt nhà vua tâu rằng: “Thần phụng mệnh trời xuống báo với hoàng gia rằng trời đã sai Thủy thần xuất thế, đầu thai vào làm con hoàng gia để đánh giặc cứu nước”. Từ đó, cung phi mang thai, đến ngày mồng 6 tháng Giêng năm Ất Tỵ thì sinh ra một chàng hoàng tử, khôi ngô tuấn tú. Kỳ lạ thay, ngay từ khi lọt lòng, hoàng tử đã biết nói, biết đi, ăn như gió, tiếng nói vang như sấm khác hẳn người thường, nhà vua thấy làm lạ bèn đặt tên là Câu Mang.

Câu Mang thông minh, ham học nên học một biết mười, lên 9 tuổi, ông đã có nhiều phép lạ, gọi gió hô mưa, đi dưới nước nhanh hơn đi trên cạn. Đến năm 19 tuổi, Câu Mang đã thông thạo thiên văn địa lý, các phép thần thông và trở thành một người văn võ song toàn.

Khi Câu Mang đến tuổi trưởng thành thì nhà vua băng hà, Hùng Duệ vương (Hùng Vương thứ 18) lên ngôi kế vị, lúc này nhiều nơi trong thiên hạ thường xuyên xảy ra hạn hán, lụt lội, trộm cướp hoành hành. Nhà vua bèn sai Câu Mang làm sứ thần, đi tuần thú trong thiên hạ để cầu đảo trời mưa và dẹp yên giặc cướp.

Tương truyền, một hôm Câu Mang đến vùng đất Thiên Bản (thuộc thôn Cầu Nhân, xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc ngày nay), thấy nơi đây quanh năm bị lũ lụt, ông bèn chiêu tập nhân dân đắp đê, sửa chữa nhà cửa, dự trữ lương thực, động viên mọi người tham gia trị thủy. Một thời gian sau, công việc trị thủy do ông đứng đầu đã hoàn tất, nhân dân trong vùng ai ai cũng thán phục. Từ đó trở đi, ông hay chu du thiên hạ, giáo hoá nhân dân, dạy dân cày cấy, đoàn kết trị thuỷ. Đi đến đâu, ông cũng được nhân dân hưởng ứng, xin nhận làm minh chủ và lập hành cung để ngài ngự. Tiếng lành đồn xa, đến tận triều đình, nhà vua vui mừng bèn triệu ông về kinh để ban thưởng và thăng chức.

Ông trở về triều làm quan được 4 năm thì nước ta bị Chúa Thục sang xâm lược. Lúc này, nhà vua đã phong cho ông làm Đô đốc mang 12 vạn quân cùng 200 chiến thuyền đánh giặc. Ngay khi nhận được lệnh, ông đã đem quân vào thẳng vùng Châu Hoan, giao chiến với giặc một trận lớn, quân giặc thua to, buộc Chúa Thục phải chạy về nước, đất nước ta trở lại thanh bình.

Câu Mang trở về kinh thành dâng biểu báo công. Nhà vua vui mừng cho giết trâu, bò, khao thưởng quân sỹ, ban tước lộc cho các tướng. Ông được phong tước Đại vương, được ban thực ấp tại huyện Thiên Bản.

Một năm sau, nước ta có giặc Ba La sang đánh chiếm, nhà vua phong cho ông là Thủy tào Thượng tướng, thống lĩnh thủy quân đánh giặc. Bằng tài đức của mình, ông đã chỉ huy quân sỹ đánh tan quân giặc.

Sau khi thắng trận trở về, ông vâng mệnh vua hồi triều, ngự trên thuyền rồng, khi ra đến khỏi cửa Hội, bỗng thấy sấm sét vang trời, sóng biển dâng cao hàng đàn cá côn, cá kình, cá ngạc lướt tới chỗ ông ngự, bỗng thấy hào quang sáng nhoáng Câu Mang hoá thành rắn vàng trở về biển, khi đó là ngày mồng 6 tháng 11.

Nghe tin ông mất, nhà vua vô cùng thương tiếc bèn sai sứ thần đến nơi Câu Mang hóa làm lễ, truyền cho nhân dân địa phương lập đền thờ phụng, gia phong làm Thượng đẳng phúc thần. Tương truyền, sau khi Câu Mang đại vương mất, người dân ở những nơi lúc sinh thời ông đi qua và lập hành cung thì đều lập đình thờ phụng. Theo Địa chí Văn hóa huyện Vụ Bản[6] của nhà nghiên cứu Bùi Văn Tam khảo cứu và biên soạn viết: “Nhà vua thấy Mang công có nhiều công lao với nước, liền phong làm Đại vương Thượng đẳng phúc thần, sai sứ đến nơi ngài hóa lập đền thờ ở cửa biển, truyền lại cho nhân dân địa phương viết thần hiệu ngài để phụng thờ. Lại truyền cho các trang ấp trước đây có lập sinh từ hoặc đồn doanh, hành cung đều về kinh đón sắc về lập đền thờ…”.

Như vậy việc thờ tự Câu Mang đại vương tại đình Cầu Nhân cũng như nhiều ngôi đình khác trong cả nước không chỉ thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” đối với một vị tướng có công đánh giặc mà còn là một sự tri ân đối với người đã có công dạy dân cày cấy, phát triển sản xuất, đem lại cuộc sống ấm no cho dân lành. Hiện nay tại di tích đình Cầu Nhân còn lưu giữ 3 đạo sắc phong thời Nguyễn, trong đó đạo sắc niên hiệu Thành Thái 1 (1889), vua đã ban chiếu chỉ chuẩn cho thôn Cầu Nhân, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản tiếp tục phụng thờ và phong cho Câu Mang Đại vương là Thượng đẳng thần, nội dung đạo sắc (dịch) như sau:

“Sắc tôn thần Câu Mang, bảo vệ đất nước che chở dân, linh thiêng ứng nghiệm rõ rệt. Vào năm Tự Đức (1848- 1883) Lễ thần bàn định tâu lên. Nay được kế thừa mệnh lớn, luôn ghi nhớ đến sự tốt đẹp của thần, phong tặng rõ ràng là Túy mục Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần (thần Thượng đẳng Thuần túy hòa mục, phò giúp nền chính trị thịnh trị). Chuẩn chô thôn Cầu Bông, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định theo trước phụng thờ thần, thần hãy che chở, bảo vệ dân ta”.

 Đình Cầu Nhân phối thờ Thiên Đá Chính cung Công chúa

Căn cứ vào nội dung của đạo sắc phong còn lưu giữ tại di tích thì đình Cầu Nhân ngoài thờ Câu Mang đại vương còn phối thờ vị thần, hiệu là: “Thiên Đá Chính cung Công chúa”. Mặc dù thần tích, thần phả đều không còn nhưng theo truyền ngôn của các cụ cao tuổi trong làng cho biết việc thờ tự vị thần này bắt nguồn từ việc thôn Cầu Nhân xưa là một vùng chiêm trũng. Người dân luôn phải đối mặt với muôn vàn thiên tai, bão gió nên dân làng đã thờ phụng với ý nghĩa mong muốn vị thần bảo hộ cho công cuộc làm ăn sinh sống của mình.

Dù lai lịch của vị thần chưa thật sự rõ ràng nhưng theo truyền thuyết dân gian thì Thiên Đá là một vị tướng có công giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi giặc Lương lập nên nước Vạn Xuân. Sau khi mất, Thiên Đá thường hiển linh phù giúp dân lành nên được các triều đại phong kiến ban tặng sắc phong. Hiện nay tại di tích còn lưu giữ một đạo sắc phong, có nội dung phong tặng cho Thiên Đá Chính cung Công chúa, đồng thời khẳng định rõ chức năng “Hộ quốc” và “Tí dân” của bà. Chức năng “Hộ quốc” là đại diện cho vua cai trị các thần làng và nhân dân, tham gia chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Chức năng “Tí dân” là phù hộ nhân dân, đem lại mưa thuận gió hoà, xã hội an ninh, không bị tai ương thiên tai địch hoạ. Nội dung đạo sắc ngày 25 tháng 7, niên hiệu Khải Định 9 (1924) hiện đang lưu giữ tại đình Cầu Nhân được chép (dịch) như sau:

“Sắc thôn Cầu Nhân, xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định phụng thờ tôn thần Thiên Đá Linh Ứng Chính cung Công chúa, bảo vệ đất nước che chở nhân dân linh thiêng ứng nghiệm rõ riệt. Nay gặp dịp Trẫm mừng thọ 40 tuổi, đã ban ơn tặng bảo chiếu, long trọng làm lễ tăng thưởng phẩm trật, phong tặng rõ ràng là Trinh uyển Dực bảo Trung hưng tôn thần (tôn thần chính trực vữn vàng, nhún thuận, phò giúp chính trị thịnh trị). Chuẩn cho phụng thờ thần, thần hãy che chở bảo vệ dân ta”.

 Đình Cầu Nhân liên quan đến các phong trào cách mạng kháng chiến tại địa phương[7]

Gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của làng xã, di tích đình Cầu Nhân đã trở thành nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và có những đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của địa phương trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, nhân dân các thôn làng ở huyện Vụ Bản, trong đó có nhân dân thôn Cầu Nhân cùng nhân dân trong tỉnh hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh đứng lên tham gia giành chính quyền. Ngày 21 tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Vụ Bản thành công, Uỷ ban cách mạng lâm thời của huyện đã cử đồng chí Ngô Đình Thân về tham gia chỉ đạo, vận động quần chúng nhân dân xã Hiển Khánh tổ chức mít tinh giành chính quyền. Đến ngày 25 - 8- 1945, Chính quyền cách mạng lâm thời xã được thành lập do đồng chí Cảo (Thượng Đồng), được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Phóng (Cầu Nhân) làm Ủy viên quân sự. Các đoàn thể quần chúng cách mạng cũng lần lượt ra đời. Từ đây, nhân dân địa phương thực sự được làm chủ vận mệnh cuộc sống của mình, ra sức lao động sản xuất và bảo vệ chính quyền cách mạng.

Cuối năm 1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Thực hiện Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chính phủ và Hồ chủ tịch, toàn thể chính quyền, nhân dân địa phương tham gia kháng chiến. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Vụ Bản, nhân dân địa phương khẩn trương xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Mỗi thôn, xã xây dựng một trung đội để làm nhiệm vụ xây dựng bảo vệ chính quyền, giữ gìn an ninh trật tự trong thôn xóm. Ngoài nhiệm vụ lao động sản xuất, lực lượng dân quân tự vệ còn thường xuyên chôn mìn, giật mìn để chặn đánh giặc Pháp khi chúng đi qua tuyến đường Hà Nội - Nam Định. Lúc này, đình Cầu Nhân là nơi hội họp, luyện tập của dân quân du kích xã.

Để việc lãnh đạo, chỉ đạo trong kháng chiến được thuận lợi, năm 1947, theo chỉ thị của cấp trên, hai xã: Đại Lão, Hiển Khánh hợp nhất thành xã Khánh Lão. Đến năm 1948, Chi bộ Đảng của xã Khánh Lão được thành lập do đồng chí Lê Mạnh Căn (thôn Cầu Nhân) làm Bí thư. Trong thời gian này, đình Cầu Nhân là một trong những địa điểm hội họp của Chi bộ Đảng để quyết định những nhiệm vụ cách mạng tại địa phương.

Cuối năm 1949, đầu năm 1950, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch RơVe, hòng khóa chặt biên giới Việt -Trung, củng cố mở rộng vùng chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ. Giặc Pháp tăng quân số cho bốt Lê Xá, bốt An Lão, đóng thêm bốt Cầu Họ, bốt Bất Di, bốt Gôi. Hệ thống đồn bốt được dựng xong, quân Pháp tiến hành càn quét, bắt bớ, tra tấn cán bộ cách mạng cùng nhân dân trong toàn huyện Vụ Bản. Mặc dù địa phương luôn nằm dưới sự kiểm soát gắt gao của địch song trong suốt thời gian hai năm bốn tháng từ tháng 10 năm 1949 đến tháng 2 năm 1952, quân và dân trong xã tích cực đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Trong thời gian này, đình Cầu Nhân còn được sử dụng là địa điểm tập kết của bộ đội chủ lực, dân quân du kích xã chặn đánh các trận càn quét của địch từ bốt Lê về bốt cầu Họ.

Từ sau hoà bình lập lại, tiếp đến những năm kháng chiến chống Mỹ (1965-1975) cứu nước, nhân dân địa phương không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, phấn đấu cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”. Lúc này, đình Cầu Nhân trở thành địa điểm đưa tiễn con em quê hương lên đường vào Nam đánh giặc, đồng thời là nơi học tập chính trị, huấn luyện quân sự cho dân quân du kích xã để sẵn sàng bảo vệ bà con trong làng khi bị giặc Mỹ ném bom.

Sau ngày đất nước thống nhất, đình Cầu Nhân trở thành nơi thờ tự, nơi diễn ra các nghi lễ phục vụ cho đời sống tín ngưỡng của nhân dân.

Tất cả những sự kiện lịch sử diễn ra tại đình Cầu Nhân qua các phong trào cách mạng và kháng chiến, nhất là trong kháng chiến chống Pháp đã ghi nhận quá trình đấu tranh của nhân dân địa phương nơi đây. Đồng thời cũng là những chứng cứ lịch sử khẳng định giá trị của di tích, góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ con em tại địa phương.

 SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH

Từ bao đời nay, đình Cầu Nhân luôn được dân làng gìn giữ bảo vệ và coi đây là một bộ phận quan trọng cấu thành nên đời sống văn hoá tinh thần cho đông đảo người dân trong vùng. Di tích không chỉ là nơi thờ phụng tri ân công đức vị thần Câu Mang đại vương, Thiên Đá Chính cung Công chúa mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá truyền thống của làng xóm quê hương.

Theo những bậc cao niên trong làng kể lại, vào những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, mặc dù đời sống nhân dân trong làng còn gặp nhiều khó khăn song hàng năm địa phương vẫn tổ chức lễ hội nhằm nhắc nhở cháu con phát huy truyền thống ông cha, giữ gìn thuần phong mỹ tục.

Hàng năm tại đình Cầu Nhân, dân làng thường tổ chức 2 kỳ lễ: Lễ kỷ niệm ngày sinh của Câu Mang đại vương (ngày 6 tháng Giêng) và lễ kỷ niệm ngày hóa của Câu Mang đại vương (ngày 6 tháng 11).

* Lễ kỷ niệm ngày sinh của Câu Mang đại vương: Được tiến hành trong 2 ngày, bắt đầu từ ngày mồng 5 và kết thúc vào ngày 6 tháng Giêng âm lịch.

Trước khi diễn ra lễ hội, dân làng đã hoàn tất các việc như bao sái đồ thờ tự, quét dọn vệ sinh khuôn viên phong quang, sạch sẽ. Các thủ tục, chương trình và mời khách tham dự lễ hội được Ban tổ chức nhanh chóng hoàn tất. Những thành viên trong các đội cờ, đội tế, múa rồng đã bắt đầu luyện tập để chuẩn bị tham dự lễ hội. Không khí chuẩn bị cho ngày hội thật sôi nổi, rộng khắp đến từng ngõ xóm gia đình.

Ngày mồng 5, mở đầu buổi lễ, một vị đại diện cho chính quyền địa phương lên đọc diễn văn khai hội. Sau diễn văn khai hội, đội tế nam quan và nữ quan tiến hành nghi thức tế cáo, xin phép thần linh cho mở cửa đình để dân làng bắt đầu bước vào kỳ lễ hội. Sau nghi thức tế cáo, các đoàn hội trong và ngoài làng rước lễ vật vào lễ Thánh. Lễ vật dâng lên tuy đơn giản nhưng đó là thành quả lao động trong một năm mà người dân địa phương đã vất vả lao động, thể hiện sự nâng niu, quý trọng phẩm vật mà mình làm ra, từ đó tỏ rõ lòng thành kính, tri ân công đức đối với các vị thần.

Sáng ngày 6, dân làng tề tựu đông đủ tại đình để tham gia nghi thức “rước kiệu thánh” xung quanh làng. Tham dự đoàn rước gồm nhiều thành phần như đội cờ ngũ sắc, cờ thần, tiếp sau là phường bát âm với các loại nhạc cụ cổ truyền, tiếp đến là đội tế nam quan và nữ quan. Theo cùng đoàn rước còn có các lão ông, lão bà chức sắc địa phương và đông đảo nhân dân tới tham gia. Tiếng trống, tiếng kèn hoà cùng tiếng hô gọi của người chỉ huy khênh kiệu khiến cho bầu không khí ngày hội trở nên tưng bừng náo nhiệt. Khi đoàn rước về tới sân đình, các kiệu được xếp hàng ngay ngắn, đồ thờ tự được đưa vào khu nội tự, chuẩn bị làm lễ dâng hương. Sau lễ dâng hương, một cụ già cao tuổi thay mặt cho dân làng đọc chúc văn để ôn lại công lao to lớn của vị thần được thờ tại di tích. Tiếp đến, mọi người tổ chức tế nam quan và nữ quan.

Chiều ngày mồng 6, dân làng tổ chức tiệc yến lão và khao lão cho các cụ già từ 70 tuổi trở lên. Vào ngày này các cụ già từ 70 tuổi trở lên được con cháu và nhân dân mời đến đình làng để tổ chức mừng thọ. Đây là một truyền thống kính trọng người già từ bao đời nay nên được các thế hệ người dân địa phương nơi đây giữ gìn và thực hiện chu đáo.           

Bên cạnh những nghi thức tế lễ, hội đình Cầu Nhân còn tổ chức các trò chơi dân gian như: Hát chèo, kéo co, chọi gà, chơi cờ, tổ tôm điếm góp phần làm cho không khí lễ hội thêm phần náo nhiệt. Những trò chơi tập thể này giúp cho người tham gia lễ hội có cơ hội để rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai, khéo léo, nhanh nhẹnđồng thời thể hiện tinh thần đoàn kết cộng cảm, cùng nhau vượt khó của người dân.

*Lễ hội kỷ niệm ngày hóa của Câu Mang đại vương: Hàng năm cứ vào ngày 6 tháng 11, người dân làng Cầu Nhân lại tưng bừng mở lễ hội kỷ niệm ngày hóa của Câu Mang đại vương.

Buổi sáng ngày 6, dân làng tập trung đông đủ tại sân đình để dâng lễ vật lên Đức thánh. Sau đó, nhân dân tiến hành làm lễ dâng hương, cầu mong các vị thần ban phúc lành để mọi người được bình an, khoẻ mạnh, mùa màng bội thu. Khi lễ dâng hương kết thúc, một cụ già cao tuổi thay mặt cho dân làng đọc chúc văn để ôn lại công lao to lớn của các vị thần được thờ tại tại tích. Tiếp đến dân làng tổ chức tế nam quan và nữ quan tại sân đình.

Buổi chiều, dân làng tổ chức họp để tổng kết những việc đã thực hiện được trong năm qua và đề ra kế hoạch cho năm mới. Sau đó, tiến hành lễ tạ và đóng cửa đình kết thúc kỳ lễ tháng 11.

Nhìn chung, lễ hội và những sinh hoạt văn hoá diễn ra tại đình Cầu Nhân hiện nay tuy ở phạm vi hẹp và đơn giản hơn về nghi lễ, song phần nào thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân địa phương đối với các đấng thần linh. Đồng thời phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người dân ở một vùng quê giàu truyền thống văn hoá và cách mạng.

KHẢO TẢ DI TÍCH

Lịch sử xây dựng

Căn cứ vào các hiện vật còn lưu giữ tại di tích cùng truyền ngôn của các cụ cao tuổi ở địa phương thì đình Cầu Nhân được khởi dựng vào thế kỷ thứ XVI, trên khu đất Mả Hiệu thuộc gò đất cạnh cánh đồng thôn Cầu Nhân ngày nay. Đình có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ ” (đinh), gồm 2 tòa: tiền đường 2 gian, hậu cung 1 gian, bộ khung bằng gỗ lim, mái lợp ngói nam. Sau đó, ngôi đình được di chuyển tới khu đất phía Đông làng (cách vị trí cũ của ngôi đình khoảng 500m về phía Đông). Đến thời Nguyễn, niên hiệu Khải Định 5 (1920), đình Cầu Nhân được chuyển về vị trí hiện nay (cách vị trí ban đầu khoảng 800m về hướng Đông Nam).

Qua nghiên cứu, khảo sát những cấu kiện gỗ, thượng lương thì đình Cầu Nhân được trùng tu, tôn tạo lớn vào các năm: 1861, 1877, 1920 và 1924. Trong lần tu sửa vào 1877, gia đình cụ Bá Đông (thôn Cầu Nhân) đã công đức tiền của xây thêm 1 tòa 5 gian. Hiện trên thượng lương toà tiền đường khắc dòng chữ Hán:

“Tự Đức tam thập niên, tuế thứ Đinh Sửu, bát nguyệt, sơ thất nhật, thụ trụ thượng lương”.

(Nghĩa là: Ngày 7 tháng 8, năm Đinh Sửu niên hiệu Tự Đức 30 (1877), dựng thượng lương.

Thượng lương tòa hậu cung khắc dòng chữ Hán:

“Đại Nam Khải Định ngũ niên, tuế Canh Thân, nhị nguyệt, thập tam nhật di tu, thụ trụ thượng lương, đại cát”.

(Nghĩa là: Ngày 13 tháng 2, năm Canh Thân niên hiệu Khải Định 5 (1920), di chuyển, tu sửa, đặt thượng lương, mọi việc tốt.

Mặc dù đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần nhưng do ảnh hưởng của thời gian cùng sự khắc nghiệt của khí hậu, ngôi đình bị xuống cấp. Đến năm 2016, dân làng đã đóng góp tiền của (hơn 400 triệu đồng) để tu bổ tôn tạo lại công trình. Hiện nay, ngôi đình có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ “” (tam) gồm 3 tòa: Tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian, hậu cung 3 gian, bộ khung bằng gỗ lim, mái lợp ngói nam.

Công trình kiến trúc

Đình Cầu Nhân tọa lạc trên khu đất có diện tích rộng 813m2, mặt quay hướng Đông Nam. Nhìn từ ngoài vào trong, đình gồm các thành phần kiến trúc: Cổng, sân công trình kiến trúc chính.

Cổng: Quay hướng Đông, làm theo lối đơn giản gồm một cửa ra vào rộng 3,20m, được tạo dựng bởi 2 cột trụ vuông, có kích thước: cao 2,65m, cạnh rộng 0,34m.

Sân: Có diện tích rộng 324m2, nền lát gạch đỏ, đây là nơi diễn ra các hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng qua mỗi kỳ tổ chức lễ hội.

Công trình kiến trúc chính: Đình Cầu Nhân có kiến trúc theo kiểu chữ ” (tam) gồm 3 tòa: tiền đường, trung đường và hậu cung.

Tòa tiền đư­ờng dài 13,30m, rộng 6,30m, chia thành 5 gian, các gian có kích thước: Gian giữa rộng 2,90m, hai gian hai bên rộng 2,40m và hai gian đầu hồi rộng 2,80m. Nền tiền đường lát gạch và được tôn cao hơn mặt sân 0,65m, phía trước có bậc lên xuống cùng lớp hiên rộng 0,92m. Nâng đỡ mái hiên là 6 cây bẩy dài 1,20m, thân bẩy được chạm bong họa tiết lá lật, đầu bẩy khắc chữ “thọ”.

Mái tòa tiền đường gồm 2 mái dốc, lợp ngói nam, bờ nóc đắp thẳng, hai đầu kìm đắp họa tiết hình rồng. Cách hai đầu hồi hiên về phía trước của đình khoảng 1,60m xây hai cột hoa biểu, cao 5m, cạnh 0,95m, chân cổ bồng, đỉnh đắp họa tiết hình nghê, vân mây, lồng đèn, thân cột tạo câu đối nhấn vữa chữ Hán ca ngợi công lao của các vị thần được thờ tại di tích.

Ngăn cách giữa hiên và toà tiền đường là hệ thống cửa ra vào. Bộ cửa tiền đư­ờng đ­ược gia công bằng gỗ, theo kiểu thượng chấn song hạ bức bàn, chạy dọc 3 gian giữa của công trình. Khoang cửa giữa gồm 6 cánh, có kích thước cao 1,90m, rộng 0,45m. Hai khoang cửa còn lại mỗi khoang 4 cánh, có kích thước giống khoang cửa giữa. Toàn bộ hệ thống cửa được đặt trong khung gỗ lắp chân quay vừa tạo thế trang nghiêm kín đáo, vừa thuận tiện cho việc đóng mở. Hai gian đầu hồi trổ cửa thông gió kiểu chữ “thọ” nhằm tạo sự thông thoáng và mở rộng không gian thờ tự cho đình làng.

Bộ khung tòa tiền đường được tạo dựng bởi sự liên kết của 6 bộ vì bằng gỗ, được thiết kế theo kiểu bốn hàng chân cùng hệ thống xà dọc, xà ngang có tác dụng giằng giữ, tạo sự chắc chắn, thông thoáng cho công trình. Mỗi bộ vì đều có hai dạng vì liên kết chủ yếu là: vì nóc và vì nách.

Vì nóc: được gia công theo kiểu câu đầu, chồng r­ường, giá chiêng. Câu đầu tại vì nóc có chức năng đỡ hai trụ non cao 0,30m. Một đầu trụ non tì lực vào câu đầu, đầu trên ghép mộng nâng đỡ hệ thống con r­ường thư­ợng. Giữa con rường thượng kê đấu vuông đỡ thư­ợng l­ương. Hai đầu con r­ường thư­ợng đặt guốc hoành đỡ 6 cây hoành của mái trư­ớc và mái sau công trình. Nối vào thân hai trụ non mỗi bên còn có hai con rường ngắn đỡ hoành của mái trư­ớc, mái sau. Ngoài việc tạo dáng soi chỉ, các cấu kiện trên vì nóc còn được chạm khắc hoạ tiết hoa lá mềm mại.

Vì nách: Có hai loại là vì mái trước và vì mái sau, được làm theo kiểu kẻ chuyền, cùng với hệ thống hoành mái nối song song giữa các cột nhằm cố định toàn bộ khung công trình.

Nâng đỡ 6 bộ vì này là hệ thống cột gồm 12 cột cái, cao 4m, đường kính 0,35m, và 12 cột quân, cao 3,60m, đường kính 0,27m. Tất cả các cột đều được làm theo kiểu búp đòng và đặt trên chân tảng bằng đá.

Tòa trung đường được xây nối liền với tòa tiền đường thông qua hệ thống máng nước, có kích thước dài 7,60m, rộng 4m, chia thành 3 gian, hai gian bên rộng 2,35m, gian giữa rộng 2,90m. Mái tòa trung đường lập ngói nam, nền nhà lát gạch Bát Tràng và cao hơn tòa tiền đường 0,30m.

Bộ khung toà trung đường bằng gỗ lim, gồm 4 bộ vì, thiết kế theo kiểu 2 hàng chân (trốn cột cái). Nâng đỡ 4 bộ vì này là 8 cột quân cao 2,70m, đường kính 0,23m. Tất cả các cột đều được tạo dáng búp đòng, kê trên chân tảng bằng đá. Hai bộ vì đầu hồi được làm theo kiểu ván mê, bảy tiền, bảy hậu. Hai bộ vì giữa thiết kế kiểu thượng ván mê, hạ chồng rường, bảy tiền, bảy hậu. Các cấu kiện cơ bản của 4 bộ vì gồm: ván mê, con rường, trụ non, bẩy, câu đầu và được chia làm 3 phần chính: vì nóc, vì nách và bảy tiền, bảy hậu.

Vì nóc: 4 bộ vì nóc của tòa trung đường đều được gia công theo kiểu câu đầu ván mê. Các ván mê được soi chỉ, khoét mộng đặt trên cấu kiện hoành của vì mái. Ở giữa ván mê trổ thủng 1 ô hình vuông. Đỉnh ván mê đỡ thượng lương, phía dưới là câu đầu nối liền với 2 đầu của trụ lửng. Trên các ván mê, câu đầu chạm khắc họa tiết lá lật, gờ chỉ mềm mại làm tăng thêm thẩm mỹ cho công trình.

Vì nách: Được chia thành 2 loại: vì mái trước và vì mái sau. Hai bộ vì nách gian đầu hồi kết cấu kiểu ván mê, hai bộ vì gian giữa được thiết kế kiểu chồng rường. Mỗi bộ vì nách gồm 2 con rường được liên kết với nhau thông qua các đấu rế.

Bẩy tiền, bẩy hậu của 4 bộ vì đều được tạo dựng bởi các cây bẩy có thân tròn, đường kính khoảng 0,30m. Trên cấu kiện gỗ của các bộ vì như: con rường, câu đầu, bẩy, ngoài việc tạo dáng soi chỉ mềm mại còn được chạm khắc họa tiết lá lật, chữ “Thọ” có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.     

Từ tòa trung đường sang tòa hậu cung là một hiên nhỏ, có kích thước dài 5,20m, rộng 1,40m, nền lát gạch Bát Tràng và cao hơn tòa trung đường 0,15m. Mái hiên lợp ngói nam và được tạo dựng bởi 4 bộ vì. Hai bộ vì đầu hồi được làm theo kiểu ván mê, hai vì giữa được thiết kế thành hai bẩy hiên của công trình. Phần nội tâm của tòa hậu cung được ngăn cách với hiên bởi 3 khoang cửa hình chữ nhật, cao 1,40m. Hai khoang bên rộng 0,65m, lắp 2 cánh cửa, khoang giữa rộng 1,55m, lắp 4 cánh cửa. Các cánh cửa đều được làm bằng gỗ, theo kiểu bức bàn và đặt lắp chân quay.

Tòa hậu cung dài 5,20m, rộng 4,10m, chia thành 3 gian, 2 gian bên rộng 1,20m, gian giữa rộng 2,80m. Bộ khung được làm bằng gỗ lim, gồm 4 bộ vì kiểu 3 hàng chân cột (trốn cột cái phía sau). Nâng đỡ 4 bộ vì này là hệ thống cột gồm 4 cột cái cao 2,90m, đường kính 0,30m, 4 cột quân cao 2,20m, đường kính 0,25m, 4 cột hiên 2,70m, đường kính 0,30m. Các cột được làm tương tự như cột ở tòa trung đường. Nếu hai bộ vì đầu hồi được làm theo kiểu vì nóc câu đầu quá giang, vì nách ván mê, bảy tiền, bảy hậu thì hai bộ vì giữa lại được thiết kế theo kiểu thượng ván mê, hạ kẻ ngồi. Để tăng thêm giá trị nghệ thuật cho công trình, hệ thống kẻ ngoài việc uốn cong mềm mại còn được tạo chỉ kép ở hai bên tạo nên sự thanh thoát cho bộ khung công trình.

Mái tòa hậu cung lợp ngói nam, nền lát gạch Bát Tràng. Gian giữa toà hậu cung là nơi đặt khám, ngai thờ Câu Mang đại vương và Thiên Đá Chính cung Công chúa.



[1] Địa chí Nam Định, Tỉnh uỷ- HĐND-UBND tỉnh Nam Định. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Tiến sỹ, Đốc học Nam Định Khiếu Năng Tĩnh soạn vào năm 1896, Bản dịch của Dương Văn Vượng, tài liệu được lưu Bảo tàng tỉnh Nam Định. Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Mỹ Thuận (1930-2005), Ban chấp hành Đảng bộ xã Mỹ Thuận, xuất bản năm 2009.

[2] Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Vụ Bản, Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hiển Khánh thì huyện Vụ Bản nguyên là huyện Thiên Bản. Địa danh Thiên Bản có từ rất sớm. Đến thời Trần, Thiên Bản thuộc phủ Kiến Hưng, thời Minh đổi tên là Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình, thời Lê lấy lại tên Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng, đến cuối thời Nguyễn đổi lại thành huyện Vụ Bản.

[3]Theo Địa chí Nam Định, năm 1956, trong công cuộc cải cách ruộng đất tất cả các xã trên địa bàn huyện Vụ Bản đổi tên theo nguyên tắc hoặc có chữ “Vụ” đứng đầu hoặc có chữ “Bản” đứng đầu. Lúc này, xã Khánh Lão đổi tên thành xã Vụ Hiên. Ngày 2 - 7- 1957, Ủy ban hành chính Liên khu III, ra quyết định đổi tên tất cả các xã thuộc huyện Vụ Bản trở lại tên gọi trong thời kỳ đầu sau cách mạng tháng Tám, vì vậy xã Vụ Hiên trở lại tên cũ là Khánh Lão.

[4] Theo Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hiển Khánh thì năm 1967, ba xã: Khánh Lão, Tân Dân, Thụy Hòa hợp nhất thành xã Hiển Khánh và giữ nguyên tên gọi cho đến nay. 

[5] Kiểm kê di tích 2017, tài liệu lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Nam Định.

[6] Địa chí Văn hóa huyện Vụ Bản, Bùi Văn Tam khảo cứu, biên soạn. Nxb.Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2016.

[7] Phần này chúng tôi biên soạn theo Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hiển Khánh (1930 - 2005), Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hiển Khánh, xuất bản năm 2007 và tư liệu do ông Lê Trọng Bổn (85 tuổi), Lê Văn Chưng (75 tuổi) thôn Cầu Nhân cung cấp.

Đình Cầu Nhân hiện lưu giữ được một số hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học với các thể loại và chất liệu khác nhau như: đá, gỗ, sứ, đồng, giấy… (Chi tiết xin xem ở Bản thống kê hiện vật thuộc di tích). Sau đây là một số hiện vật có giá trị tiêu biểu:

Sắc phong: Hiện nay tại di tích còn lưu giữ được 4 đạo sắc phong. Về niên đại, đạo sắc sớm nhất ngày 8 tháng 10 niên hiệu Thành Thái 1 (1889), đạo sắc muộn nhất ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định 9 (1924). Về chất liệu, các đạo sắc này đều được viết trên nền giấy dó truyền thống, kích thước[1] trung bình dài khoảng 130cm, rộng khoảng 50cm. Về hình thức, sắc viết bằng chữ Hán trên nền vẽ rồng, vân mây, 4 góc tạo thành 4 ô vẽ đề tài tứ linh, diềm sắc vẽ hoa văn cẩn quy, hình học. Về nội dung 3 đạo sắc có các niên hiệu: Thành Thái 1 (1889), Duy Tân 3 (1909) và Khải Định 9 (1924), ghi nhận công lao và phong thần cho Câu Mang đại vương, 1 đạo sắc có niên hiệu Khải Định 9 (1924), phong cho Thiên Đá Chính cung Công chúa.

Ngai thờ Câu Mang đại vương: Được đặt tại tòa hậu cung, có kích thước cao 117cm, rộng 60cm, dài 70cm. Tay ngai tạo hình đầu rồng, hai bên tay ngai là trụ ngai được tạo dáng hình con tiện, chạm hoạ tiết rồng leo. Hậu ngai chia thành 3 ô nhỏ, trên các ô đục chạm thông phong hình rồng, phượng. Phần cổ đẳng trang trí hoạ tiết rồng leo, hoa lá. Chân tạo dáng chân quỳ dạ cá, đế chạm hình rồng. Toàn bộ khám được sơn son thếp vàng và có niên đại thời Nguyễn.

Đại tự: Được treo tại tòa trung đường, bằng gỗ, hình chữ nhật, có kích thước dài: 160cm, rộng 40cm, diềm trên chạm họa tiết hình rồng, bên trong nền đỏ chia thành 4 ô, khắc nổi 4 chữ Hán màu vàng: “Thánh cung vạn tuế”. Căn cứ vào hoạ tiết, đường nét trang trí thì đại tự có niên đại thời Hậu Lê, thế kỷ thứ XVIII.

GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC, THẨM MỸ CỦA DI TÍCH

Đình Cầu Nhân là di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử, là nơi để nhân dân thờ phụng vị thần Câu Mang đại vương. Ông là một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, có công đánh giặc giữ nước, dạy dân cày cấy, đem lại cuộc sống ấm no cho người dân. Sau khi ông mất, nhân dân nhiều nơi trong đó có nhân dân làng Cầu Nhân lập đình thờ phụng. Tín ngưỡng thờ phụng đức thánh Câu Mang đại vương tại đình Cầu Nhân không chỉ mang ý nghĩa tôn thờ vị tướng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc mà còn trở thành thờ vị thần nông nghiệp, bảo trợ cho công cuộc làm ăn của cư dân trồng lúa nước.

Đình Cầu Nhân còn phối hợp thờ vị thần Thiên Đá Chính cung Công chúa. Đây là vị thần mang đậm yếu tố dân gian, huyền thoại nhưng đối với nhân dân địa phương thì vị thần trên đã gắn bó và luôn phù trợ cho công cuộc làm ăn của nhân dân ngày thêm phồn vinh thịnh vượng.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Cầu Nhân là cơ sở cách mạng của địa phương, là nơi tập trung, huấn luyện và hoạt động của bộ đội chủ lực, dân quân du kích xã. Điều đó càng tô đậm truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân, góp một phần vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Công trình kiến trúc đình Cầu Nhân từ khi khởi dựng đến nay vẫn bảo lưu được những giá trị kiến trúc nghệ thuật truyền thống. Những mảng chạm khắc tinh xảo trên các cấu kiện gỗ ở đây mang đặc trưng phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, thế kỷ XIX. Tại di tích, còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật như: Sắc phong, ngai thờ, mịch thờ, đại tự, câu đối,…có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, giúp tìm hiểu về văn hóa, mỹ thuật của xã hội đương thời.

Bên cạnh giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, hàng năm tại đình Cầu Nhân diễn ra lễ kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của Câu Mang đại vương. Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa tri ân công đức đối với các bậc tiền nhân mà còn là nguồn lực nội sinh, tạo ra sức mạnh để người dân bước vào công cuộc đổi mới xây dựng quê hương giàu đẹp văn minh, xứng đáng với vùng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng.

THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH

          Đình Cầu Nhân là công trình tín ngưỡng tiêu biểu của địa phương hiện được bảo quản tốt. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cùng với sự tác động của thiên nhiên và chiến tranh, di tích đã trải qua 3 lần di chuyển, trùng tu tôn tạo nhiều lần. Trên thượng lương tòa tiền đường còn ghi rõ lần trùng tu, tôn tạo vào năm Đinh Sửu niên hiệu Tự Đức 30 (1877). Điều đó đã ghi nhận sự nhiệt tâm và thái độ trân trọng của người dân địa phương đối với việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Trong những năm gần đây, cùng với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự hảo tâm đóng góp của những người con xa quê, chính quyền và nhân dân địa phương đã quan tâm đến việc tu bổ di tích. Do vậy, nhiều hạng mục đã được tu bổ, tôn tạo đồng bộ, đúng kỹ thuật nên công trình ngày một khang trang, bền đẹp.

          Để bảo tồn và phát huy hơn nữa giá trị của di tích, đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, Ban bảo vệ di tích và nhân dân địa phương thực hiện tốt những công việc sau:

          - Thành lập Ban quản lý di tích, trong đó có sự tham gia của lãnh đạo chính quyền địa phương. Ban di tích quản lý có trách nhiệm thực hiện các quy định của Luật Di sản văn hóa và các quy định pháp luật khác có liên quan trong việc tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.

          - Có biện pháp chống mối mọt, ẩm mốc đối với các cấu kiện gỗ và đồ thờ tự.

  - Huy động thêm các nguồn kinh phí xã hội hóa từ các cá nhân, tổ chức, nhân dân địa phương và tấm lòng hảo tâm của những người con xa quê để tôn tạo lại nghi môn, bổ sung thêm câu đối, đại tự, nhang án…; cải tạo khuôn viên và môi trường sinh thái của di tích.

          - Tổ chức lễ hội với nhiều hình thức sinh hoạt phong phú lành mạnh, thu hút đông đảo nhân dân và khách thập phuong tham gia. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống quê hương và tri ân công đức đối với người có công, nâng cao tinh thần đoàn kết trong nhân dân.  



[1] Đạo sắc niên hiệu Khải Định 9 (1924), có kích thước dài 132cm, rộng 53cm. Đạo sắc niên hiệu Duy Tân 3 (1909), dài 130cm, rộng 50cm. Đạo sắc niên hiệu Thành Thái 1 (1889) dài 130cm, rộng 50cm.

Cơ quan chủ quản: UBND XÃ MỸ THUẬN
Địa chỉ : UBND Xã Mỹ Thuận - thành phố Nam Định - tỉnh Nam Định
Email: xamythuan.ndh@namdinh.gov.vn
  
Chung nhan Tin Nhiem Mang